Quy Trình Xin Học Bổng Ngành Luật Tại Mỹ (phần 2)
06/11/2020
5. Học bổng
Mức học phí trường luật ở Mỹ thực sự quá đắt đỏ. Trung bình mỗi năm $47,000 tiền học và $15,000 sinh hoạt phí (con số thay đổi tùy trường và bang). Sinh viên bản xứ cũng phải vay nợ chính phủ để đi học chứ đừng nói đến sinh viên quốc tế chật vật mức nào. Rất nhiều bạn muốn xin học bổng nhưng thực sự các bạn đã hiểu câu chuyện đằng sau nó? Tại sao trường ở Mỹ cho học bổng? Làm thế nào để có học bổng?
Xuất sắc không phải là tất cả. Nhiều người nghe nói đến đi du học và có học bổng là nghĩ ngay đến chắc họ phải xuất sắc lắm. Cũng không chắc.
Chính phủ Mỹ bảo trợ công dân của họ rất tốt. Người bản xứ học JD có mức học phí riêng. Người nào học tại bang mà họ là resident thì chỉ cần đóng một nửa. Người đã từng phục vụ trong quân ngũ nhiều khi được miễn toàn bộ tiền học, kể cả là ở các trường tư. Mặc dù hầu hết sinh viên bản xứ phải vay nợ chính phủ để học luật nhưng rất nhiều trong số họ cũng được học bổng. Phổ biến là $1,000 - $10,000/ năm. Trường hợp nhiều hơn cũng có. Điểm LSAT và GPA đại học càng cao thì học bổng càng nhiều.
Nhưng cũng chính vì sự ưu đãi này mà budget dành cho chương trình JD của các trường bị ảnh hưởng. Họ phải tìm nhiều nguồn khác để duy trì hoạt động như tiền đóng góp từ cựu sinh viên (alumni gift), tiền dự án nghiên cứu, các khóa học mùa hè và đặc biệt là chương trình LLM, SJD.
Học bổng LLM:
Thời điểm dễ có học bổng LLM nhất theo tôi là ngay sau khi tốt nghiệp cử nhân luật. Trường sẽ xét đến quá trình học tập trong 4 năm của bạn. Nhiều yếu tố như GPA cao, IELTS hoặc TOEFL cao, có các bài viết được đăng trên các báo uy tín (VD như Tạp chí luật học, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,…) hoặc bài nghiên cứu được giải (VD như cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học, sách hoặc đề tài nghiên cứu cùng thầy cô giáo), học 2 bằng,… Theo kinh nghiệm bản thân, trong khi trường châu Âu đề cao khả năng học thuật thì trường Mỹ lại rất thích sự năng động ở sinh viên. Ví dụ như đã đi thực tập trong quá trình học, tham gia các cuộc thi trong ngoài nước, tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế,…
Điều thứ 2 trường luật ở Mỹ muốn khi tuyển sinh là tính đa dạng của khóa học, tức là họ tìm kiếm sự khác biệt. Bạn được chọn không phải vì bạn có “tính Mỹ” mà vì bạn đại diện cho một cái gì đó rất riêng của bạn, của nước bạn. Ví dụ như học 2 ngành song song (kinh tế và luật chẳng hạn), có tài lẻ, chơi thể thao, chơi nhạc cụ truyền thống, nói nhiều thứ tiếng, có giải về leadership,…
Tại sao nói là dễ nhất? Vì trong 4 năm học bạn có nhiều thời gian và cơ hội để làm giàu bản thân mình. Còn nếu ra đi làm 1-2 năm thì với các vị trí khởi điểm, bạn không có gì nhiều để ghi vào CV. Hơn nữa, đã đi làm tức là bạn coi như đã có khả năng độc lập kinh tế. Vậy thì trường sẽ nghĩ bạn sẽ không cần tiền nhiều bằng những người đang hoặc mới học xong.
Tiếp nữa là bạn có thể tranh thủ các chương trình hợp tác giữa trường luật bạn theo học và trường ở Mỹ. Cho học bổng cũng là một cách để họ PR. Bởi vậy đối tượng (có nguyện vọng làm) giảng viên và công chức nhà nước thường được ưu tiên. Thử tưởng tượng bạn nghe nói giảng viên mình thích hoặc thẩm phán tòa tối cao từng học ở trường đó thì bạn có thích chọn trường đó hơn không? Tiền học bổng họ cho đi chính là khoản đầu tư dài hạn để có lợi ích kinh tế về sau này.
Thực ra, nếu nói là thời điểm TỐT nhất để đi học thạc sĩ, có lẽ luôn là vài năm sau khi bạn đã đi làm. Bởi khi đã đi làm bạn biết bạn muốn học gì hơn. Nhưng chưa chắc lúc đó bạn đã DỄ xin được học bổng.
Học bổng SJD:
Gần như 100% dành cho học giả, giảng viên, công chức nhà nước. Nhưng thông thường đối tượng này sẽ phải xin học bổng từ chính phủ hoặc tổ chức tài trợ họ.
Học bổng JD:
JD quả thực có chương trình đào tạo cực kì hay, rất khác biệt so với LLM.
Nếu bạn có LSAT thật cao, khoảng 160 trở lên thì khả năng có học bổng càng lớn.
Nếu bạn có bằng cử nhân về kĩ thuật, y dược, vật lý, toán, tài chính ngân hàng, công nghệ thông tin,… thì khả năng trường luật nhận bạn vào học và cho học bổng càng cao. Vì những bằng này thể hiện trình độ của bạn, nói nôm na là không làm giả được. Và background trong các ngành này cũng khiến bạn dễ xin việc vào các văn phòng luật hơn sau khi tốt nghiệp.
Nếu bạn có bằng cử nhân luật và đặc biệt đã hành nghề được một thời gian thì hầu như bạn sẽ không được cho học bổng. Vì khi đặt bạn lên bàn cân so sánh cùng các ứng viên khác, bạn có hiểu biết về luật quá nổi trội. Như vậy là không công bằng. Chưa nói đến câu chuyện xin visa sang Mỹ sẽ khó khăn hơn khi bạn quá giỏi, độc lập kinh tế và không có vướng bận gì ở nước sở tại. Chẳng có gì chứng minh nổi bạn sẽ trở về sau khi học xong.
Những người đã đi làm mà muốn đi học JD thì thường tự bỏ tiền hoặc do công ty tài trợ tiền với yêu cầu cam kết quay trở lại làm việc.
Nói tóm lại, ngoài những thứ hiển nhiên như khả năng học thuật và ngôn ngữ, nếu bạn biết được lí do kinh tế như trên thì bạn có thể định hướng tốt hơn khi xin học bổng học luật tại Mỹ.
6. Internship, externship, clerkship, clinical practice, research assistant, journal editor,…
Một lí do khiến việc học JD ở Mỹ rất hay là vì có rất nhiều cơ hội thực hành trong quá trình học. Nghe có vẻ hoa mỹ nhưng thực chất là để thử lửa xem bạn thích làm gì về sau (in-house counsel, public interest, prosecution, transactional, litigation,…); networking với giới luật sư; tìm việc sau khi tốt nghiệp (nếu thể hiện tốt, có những nơi sẽ đảm bảo tuyển bạn luôn); đi du lịch; và tất nhiên, làm đẹp CV.
Phòng thực hành luật của trường (legal clinic) và văn phòng Career Development Office luôn có rất nhiều thông tin về internship, externship, clerkship, clinical practice cho bạn apply. Ở Mỹ đang có tranh cãi về việc trong tương lai mọi công việc thực tập đều phải có thù lao và phải ít nhất phải bằng mức lương tối thiểu. Còn hiện tại, quan điểm phổ biến là các vị trí này hoặc sẽ có thù lao hoặc sẽ được tính vào số tín chỉ học.
Internship là công việc thực tập, có hoặc không lương. Là vị trí ngắn hạn. Có nhiều công ty luật cứ mỗi mùa hè lại tổ chức internship program trong 8 – 12 tuần dành cho sinh viên luật. Thực tập sinh sẽ được đào tạo, được tham gia vào các vụ việc, được giao những công việc cụ thể như viết memo, brief,…
Externship khá giống internship, nhưng được coi là “shadow position”. Tức là hầu như chỉ được đi theo luật sư để quan sát học hỏi, không có vị trí cũng không được tham gia hoặc giao công việc.
Clerkship là vị trí thực tập hỗ trợ các thẩm phán hoặc văn phòng công tố. Khi thẩm phán nhận một vụ việc, họ sẽ cho bạn đọc tất cả các tài liệu, đơn khởi kiện, chứng cứ của cả nguyên đơn và bị đơn. Nhiệm vụ của clerk là legal research vấn đề và viết memo phân tích một cách khách quan vụ việc để giúp thẩm phán đưa ra phán quyết.
Clinical practice là vị trí thực hành luật trong phòng thực hành pháp luật tại trường (legal clinic). Thường chỉ có sinh viên năm cuối được làm. Cơ bản là họ sẽ tiếp nhận vụ việc, legal research, viết memo, brief, thu thập chứng cứ, nói chuyện với khách hàng, ra tòa bảo vệ thân chủ,… như một luật sư thực thụ. Nhưng họ luôn phải được giám sát bởi một giáo sư phụ trách trong clinic. Đặc biệt khi ra tòa trình bày họ luôn phải có giáo sư ngồi bên.
Research assistant là người phụ giúp giáo sư nghiên cứu cho dự án hoặc bài viết nào đó. Đây là công việc có trả lương.
Journal editor. Mỗi trường luật đều có một hoặc nhiều tạp chí pháp luật của mình về nhiều mảng như international law, IP law,… Điểm đặc biệt là giáo sư chỉ là người chịu trách nhiệm cao nhất, còn lại tất cả các vị trí như editor, editor-in-chief đều do sinh viên trong trường đảm nhiệm. Họ tiếp nhận các bài viết, kiểm tra trích dẫn, chất lượng bài viết và lựa chọn để in vào journal của trường. Nhiều người không biết rằng quyển Bluebook – A Uniform Syste of Citation nổi tiếng cũng được tổng hợp bởi toàn sinh viên. Chỉ có những sinh viên xuất sắc sau năm nhất mới được nhận vào làm trong journal. Dù vậy, nhiều người gọi công việc này là “cheap labour” vì đầu tư chất xám rất nhiều mà không có lương.
7. Paralegal vs. trainee lawyer
Đây cũng là sự khác biệt rất đáng lưu ý giữa việc bắt đầu thực hành luật ở Việt Nam và ở Mỹ.
Ở Việt Nam, ngay sau khi tốt nghiệp, cử nhân luật có thể xin vào làm việc tại các văn phòng. Vị trí bắt đầu thường là intern, sau đó là paralegal, rồi trainee lawyer, associate, senior associate, junior partner, partner, managing partner,… Paralegal được coi là một vị trí bắt đầu của người muốn trở thành luật sư. Nó nằm trong chuỗi thăng tiến công việc của một lawyer-to-be. Thường sau khi đã lấy được bằng luật sư, bạn mới được thăng tiến thành trainee lawyer.
Trong khi đó ở Mỹ, paralegal nằm tách biệt hoàn toàn khỏi legal career path. Module Rule of Professional Conduct quy định các nguyên tắc cho hành nghề luật sư. Trong đó, tất cả các luật sư làm trong cùng một công ty luật chịu trách nhiệm liên đới. Paralegal không nằm trong số đó. Yêu cầu tuyển dụng paralegal cũng không cần có bằng cấp liên quan tới luật. Cùng lắm là yêu cầu có chứng chỉ paralegal (đào tạo trong 1 năm). Paralegal chỉ làm một công việc duy nhất là research, tìm kiếm cases và statutes cho từng vụ việc. Trong khi đó lawyer là người nhận các file research sẵn đó để nghiên cứu, viết thành memo hoặc brief. Sinh viên luật ở Mỹ thường chỉ làm internship khi còn đi học. Khi tốt nghiệp, họ phải thi đỗ bar và bắt đầu công việc với vị trí trainee lawyer.
Có một số nhà tuyển dụng ở Mỹ dị ứng với JD từng làm paralegal trước đó. Nếu có đủ khả năng tại sao không học luật sư ngay từ đầu mà lại làm paralegal. Họ cho rằng như vậy là thiếu tham vọng hoặc khả năng có hạn.
Nguồn: (st)
------------------------------------
Đăng ký tham gia chương trình 7Edu Talent để được nhận gói hỗ trợ săn học bổng hoàn toàn FREE.
=> Quyền Lợi Của Thành Viên 7Edu
Những con số ấn tượng của 7EDU trong những năm qua:
• Học bổng cao nhất: 100% toàn khóa (học phí + sinh hoạt phí)
• Tỷ lệ visa du học thành công: 99.99%
• Tỷ lệ sinh viên hài lòng với khóa học + trường đã chọn: 99%
• Mức lương khởi điểm cao nhất của sinh viên $85,000/ năm
7EDU hỗ trợ chuyên sâu từng vòng nộp học bổng và visa du học tại các nước với phí dịch vụ 0Đ tại hơn 500 trường đối tác.